Ước tính cứ 3 người thì có 1 người bị zona thần kinh ít nhất một lần trong suốt cuộc đời. Theo thống kê tỷ lệ mắc zona trung bình là 3,6/1000 người/năm. Zona thần kinh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường ít nghiêm trọng hơn ở trẻ em và thanh niên nhưng tăng lên theo tuổi với 68% trường hợp xảy ra ở những người từ 50 tuổi trở lên, đặc biệt ở người lớn tuổi và bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
1. Bệnh zona thần kinh là gì và nguyên nhân bệnh
Bệnh zona thần kinh (herpes zoster) là một hội chứng đặc biệt do sự tái hoạt động của virus varicella zoster (VZV), virus gây nên bệnh thuỷ đậu. Khi nhiễm lần đầu virus VZV người bệnh sẽ bị thuỷ đậu, khỏi thì Virus vẫn tồn tại và sống ẩn hàng chục năm trong các hạch thần kinh trong cơ thể của người bệnh. Khi gặp các điều kiện thuận lợi như: tuổi cao, suy giảm miễn dịch, căng thẳng, suy nhược cơ thể, bệnh nhân ung thư, xạ trị hoá trị … virus sẽ tái hoạt động trở lại, rời vị trí trú ngụ, di chuyển dọc dây thần kinh để ra ngoài da gây ra những biểu hiện của bệnh Zona. Do đó bệnh Zona thần kinh là bệnh có biểu hiện ở da nhưng gốc rễ là ở tổn thương tế bào thần kinh ngoại biên.
2. Dấu hiệu lâm sàng và chẩn đoán Zona thần kinh
Bệnh zona thần kinh chia làm 3 giai đoạn bệnh:
Giai đoạn tiền khởi phát của zona thần kinh: có các dấu hiệu lâm sàng như: có thể sốt nhẹ, mệt mỏi, đau nhức, ngứa, khó chịu và đau dọc theo sự phân bố dây thần kinh. Cơn đau trước này có thể xảy ra trước phát ban vài ngày và có thể bị nhầm lẫn với nhồi máu cơ tim, đau do mật hoặc thận, viêm màng phổi, đau răng… dẫn đến chẩn đoán sai và có thể điều trị sai.
Giai đoạn bùng phát cấp tính: Vài ngày sau khi các triệu chứng xuất hiện sau đó là tình trạng phát ban gây phồng rộp ngoài da gây viêm, ngứa. Nóng rát và đau thậm chí đau dữ dội là hai triệu chứng dễ nhận biết và đặc trưng nhất của bệnh này. Giai đoạn này thường kéo dài 2-4 tuần.
Giai đoạn đau thần kinh sau zona (giai đoạn mạn tính): đau dây thần kinh sau zona là biến chứng phổ biến nhất mà bệnh zona để lại nó có thể kéo dài tới vài tháng vài năm hoặc suốt đời. Cơn đau thường không liên tục và không tương quan với kích thích từ bên ngoài, bệnh nhân có thể chịu đau đớn và khó chịu dữ dội do một cái chạm nhẹ hay quần áo và tóc vô tình trượt qua. Do đó, rất dễ hiểu khi cơn đau gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên sinh hoạt thường ngày của bệnh nhân,thậm chí gây mất ngủ, trầm cảm (nhiều ca bệnh được báo cáo với dấu hiệu trầm cảm giai đoạn đầu do sự bất tiện của cơn đau gây nên).



3. Đối tượng nào dễ mắc zona?
Bệnh Zona có thể xảy ra với bất cứ ai đã bị thuỷ đậu, một số đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh zona gồm:
- Người 60 tuổi trở lên.
- Người mắc bệnh suy giảm hệ miễn dịch: ung thư, HIV,…
- Đã chữa bệnh bằng hóa trị hoặc xạ trị.
- Dùng thuốc làm suy yếu hệ thống miễn dịch, chẳng hạn như: steroid, thuốc dùngsau khi cấy ghép nội tạng.
- Đã bị zona trước đó.
Bệnh Zona thần kinh có lây không?
Bệnh zona là bệnh truyền nhiễm, lây từ người nhiễm virus zona cho người khác thông qua tiếp xúc trực tiếp với phồng nước bị vỡ.
4. Điều trị Zona thần kinh như thế nào?
Giai đoạn cấp tính
Mục tiêu điều trị trong giai đoạn cấp tính là kiểm soát các triệu chứng và ngăn ngừa các biến chứng. Các lựa chọn điều trị bao gồm liệu pháp kháng virus, corticosteroid và thuốc giảm đau.
- Thuốc kháng virus: Acyclovir, famciclovir và valacyclovir là các chất có tác dụng ức chế sự nhân lên của virus herpes ở người, bao gồm cả VZV. Các tác nhân này làm giảm thời gian hoạt động của virus, đẩy nhanh quá trình lành vết phát ban, giảm mức độ nghiêmtrọng và thời gian của cơn đau cấp tính, đồng thời giảm nguy cơ tiến triển cơn đau thần kinh.
- Thuốc chống viêm Corticosteroid: Corticosteroid không có tác dụng đối với đau thần kinh do zona. Khi kết hợp với liệu pháp kháng virus, chúng làm giảm mức độ nghiêm trọng và thời gian của các triệu chứng viêm cấp tính. Tuy nhiên, corticosteroid có liên quan đến nguy cơ cao gặp phải các tác dụng không mong muốn, do đó chỉ nên sử dụng ở những bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng nghiêm trọng và không có chống chỉ định đối với thuốc.
- Thuốc kháng sinh: được chỉ định khi có tình trạng bội nhiễm
- Thuốc giảm đau: Các thuốc giảm đau không steroid (NSAIDs), paracetamol .. thường không hiệu quả nhiều trong trường hợp này do đau chính trong zona thần kinh là đau do tổn thương tế bào thần kinh, nó chỉ có ý nghĩa phần nào trong đau do viêm hoặc nhiễm trùng da trong giai đoạn cấp.
Giai đoạn mạn tính (Đau thần kinh sau zona).
NSAID hay paracetamol: không hiệu quả trong giai đoạn này do cơ chế đau là do tổn thương tế bào thần kinh ngoại biên.
Trước đây, để quản lý đau thần kinh do zona, người ta thậm chí phải dùng đến các thuốc chống trầm cảm (phổ biến nhất là nortriptyline và amitriptyline),chống co giật (pregabalin và gabapentin), hay thậm chí là các opioid gây nghiện. Tuy nhiên, hạn chế của các nhóm thuốc này không chỉ đến từ việckhông thể hiện rõ tác dụng giảm đau mà còn gây ra nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng như: nguy cơ rối loạn nhịp tim, an thần, chóng mặt, giảm trí nhớ, lo âu, thay đổi cách ứng xử nhiều trường hợp còn gặp các biểu hiện làm tổn thương bản thân, thậm chí tự tử; các opioid có thể gây táo bón, rối loạntâm thần và nghiêm trọng hơn là lạm dụng thuốc.
Các thuốc gây tê bề mặt như lidocain: Là các thuốc giảm đau bề mặt tại chỗ, Lidocain phong bế cả sự phát sinh và dẫn truyền xung động thần kinh bằng cách giảm tính thấm của màng tế bào thần kinh với ion natri, tuy nhiên tác dụng giảm dần khi dùng lâu dài do các đầu mút dây thần kinh bị giảm đáp ứng.- Hướng tiếp cận mới trong điều trị đau thần kinh sau zona :Từ nghiên cứu đạt giải nobel đó các nhà khoa học đã tìm ra Adelmidrol là một trong những chấttương tự PEA thuộc họ ALIA mides (Autacoid Local Injury Antagonist Amides) với tác dụng chống viêm mạnh được thể hiện thông qua khả năng điều hòa hoạt động của tế bào mast.

